Ngày 26 – 3 – 1975, Thừa Thiên Huế được giải phóng, một thời kỳ mới xuất hiện, Hội Văn học Nghệ thuật Giải phóng Thừa Thiên Huế bắt đầu triển khai hoạt động trên địa bàn toàn tỉnh, dưới sự điều hành của nhà thơ Thanh Hải. Tại cuộc họp mặt của giới văn nghệ sĩ Huế tối 14 – 4 – 1975, một Ban điều hành công tác văn nghệ thành phố Huế được thành lập, do nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm làm Trưởng ban, gồm lực lượng văn nghệ sĩ từ chiến khu vừa về thành phố, kết hợp với văn nghệ sĩ tại chỗ, văn nghệ sĩ từ miền Bắc vào, đã hình thành một đội ngũ những người hoạt động văn nghệ đông đảo và đa dạng tại Huế.
Từ sau ngày Huế giải phóng, dù đi đâu, ở đâu cũng nghe vang lên giai điệu nồng nàn với lời ca trữ tình, tha thiết của nhạc sĩ Trần Hoàn: “…Ơi em yêu, hãy ngước mặt lên và lau khô nước mắt…” (Nắng tháng 3), không chỉ vang lên mỗi sớm mai từ các loa truyền thanh, phát thanh, mà bất cứ sân khấu văn nghệ quần chúng lớn, nhỏ nào về đêm cũng đều có diễn viên đủ mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi thành phần say sưa hát.
Đến năm 1976, công chúng yêu âm nhạc cũng như mọi người dân Huế lại được đón nhận một nhịp điệu rộn ràng, tươi mới, với một tiết tấu khỏe khoắn, giàu hình tượng: “…Gánh, gánh, gánh rau ra chợ, sáng hôm nay lòng chị xôn xao…” (Gánh rau ra chợ) của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, mới từ Sài Gòn về lại quê hương.
Đầu năm 1977, nhiều nhạc sĩ của Huế đã nhanh chóng nhập cuộc và thổi hồn vào các phong trào mới, các nhiệm vụ mới của quê hương, bằng với tình yêu quê hương và lòng nhiệt thành cháy bỏng, những ca khúc mới nhanh chóng ra đời, đã động viên, nâng bước chân hàng ngàn nam nữ thanh niên Huế hăng say lên đường xây dựng quê hương mới; với giọng rê trưởng thôi thúc, giục giã, cùng với lời ca rạo rực về một miền đất mới: “…Về Tây Nguyên, đến Tây Nguyên ta vui bước khi xuân đang về, lòng nôn nao, gió xôn xao, nắng ấm mới khắp rừng đón chào…” (Về Tây Nguyên – Nguyễn Phú Yên).
Thời gian ngắn sau đó, để vận động nhân dân trong tỉnh nhà hăng hái tham gia lao động sản xuất, trồng màu cứu đói, nhiều bài hát ngợi ca tinh thần lao động nhanh chóng ra đời, như: Tấc đất tấc vàng của Lê Quang Hào, do đội Văn nghệ Xung kích thành phố Huế thường xuyên biểu diễn; hay bằng một ngôn ngữ âm nhạc kết hợp nhuần nhuyễn giữa cổ điển với dân gian, cùng với lời ca tình tự, sâu lắng: “…bầu trời hôm nay trong xanh, từng đàn chim bay nhanh, về tổ ấm nơi nao, mà giữa đất trời nghe xôn xao giọt nắng…” (Màu xanh yêu thương – Lê Anh); hoặc: “…Trong ánh mắt em cười có màu xanh khoai sắn…” (Tình ca mùa xuân, thơ: Nguyễn Loan, nhạc: Trần Hoàn)…
Năm 1979, để biểu thị tinh thần yêu nước và ngợi ca vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, nhân sự kiện chào mừng ngày sinh của Người, qua lời thơ của Nguyễn Sỹ Hạc, Trần Hữu Dàng đã sáng tác ca khúc Ánh đuốc Bác Hồ để đón ngọn lửa thiêng trên đường rước về Huế; và còn nhiều sáng tác mới rộ lên trong thời kỳ này. Ở đây, xin phép chỉ nêu một số tác phẩm tiêu biểu nói trên; tựu trung, tất cả đã góp phần tạo nên một diện mạo mới về hoạt động âm nhạc trên quê hương sau ngày giải phóng.
Từ không khí hoạt động âm nhạc khá sôi động của những năm cuối thập niên 70 ấy, đã tạo một tiền đề tốt cho sự phát triển của tổ chức Hội Âm nhạc Thừa Thiên Huế sau này. Như đã đề cập ở trên, dù chưa gặp mặt nhau – kẻ Nam, người Bắc, người thì hoạt động ở chiến khu, kẻ ở thành thị – lại cùng sống và sinh hoạt với nhau trong một giai đoạn bộn bề của thời cuộc; thế nhưng sớm nhanh chóng gắn kết nhau đã tạo ra nhiều hoạt động về âm nhạc có ý nghĩa.
Người ở chiến khu về, có nhạc sĩ Trần Hoàn, Nguyễn Hữu Vấn; tại Huế có Nguyễn Phú Yên, Lê Gia Phàm; thời gian liền sau đó còn có Trịnh Công Sơn; miền Bắc vào có Trần Hữu Pháp, Lê Anh, Minh Phương, Mai Xuân Hòa, Quách Mộng Lân, Hoàng Sông Hương; sau này có thêm nhạc sĩ Thái Quý, Nguyễn Trọng Tạo, Huy Chu, Hoàng Nguyên…
Riêng mảng đào tạo: từ khi có nhạc sĩ Hà Sâm, tu nghiệp nước ngoài về, được Bộ cử vào Huế để tiếp quản và điều hành hoạt động Trường Âm nhạc Huế (vốn là Trường Âm nhạc – Kịch nghệ Huế được hình thành từ trước), đã nhanh chóng ổn định và phát triển thêm nhiều bộ môn đáp ứng quy chuẩn đào tạo ngành chuyên môn phù hợp với hệ thống đào tạo quốc gia. Chính điều này giúp đội ngũ giảng viên không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, và đó cũng là nguồn phát triển hội viên dồi dào và có chất lượng.
Tiêu biểu như: Nhạc sĩ Lô Thanh, Trương Ngọc Thắng, Hoàng Công Nghê (Hoàng Nguyễn), Nguyễn Khắc Yên, Xuân Lai, Vĩnh Hùng, Trương Huệ Mẫn, Lê Quang Hùng…
Song song với Trường Âm nhạc Huế, Trường Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật cũng được thành lập, đã góp phần tạo nguồn năng lượng cho mọi hoạt động chung về văn hóa nghệ thuật trên địa bàn tỉnh nhà.
Được đào tạo bài bản, chính quy, cùng với một nguồn năng lượng tích cực được tích lũy, vun đắp và chọn lọc qua quá trình “va đập” với thực tế cuộc sống; từ giữa những năm thập niên 80 đến đầu những năm 90 của thế kỷ trước, đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu, lý luận phê bình âm nhạc mang tính học thuật, được đăng tải trên nhiều tạp chí uy tín, cũng như được tuyển chọn làm giáo trình giảng dạy hoặc in thành sách để truyền thụ trong các trường chuyên ngành, như của Hà Sâm, Lô Thanh, Nguyễn Đình Sáng, Trần Đức, Dương Bích Hà, Bùi Ngọc Phúc (Vĩnh Phúc), Việt Đức, Thân Trọng Bình…
Cùng với đó là những tác phẩm âm nhạc có tính quy mô, như: Giao hưởng Ba Tơ của Hà Sâm, Giao hưởng Sông Hương của Việt Đức, Giao hưởng Azakoon của Vĩnh Phúc, Giao hưởng Người con sông Hàn của Nguyễn Khắc Yên; và với nhiều tác phẩm âm nhạc không lời khác, như của Lê Phùng, nhiều tứ tấu, hòa tấu của Vĩnh Phúc, các tác phẩm âm nhạc dân tộc của Trần Đại Dũng, Minh Tiến…
Và, cũng có thể nói rằng, đây chính là thời kỳ khai nở nhiều ca khúc của các nhạc sĩ là hội viên, hoặc từng là hội viên do hoàn cảnh phải đi xa Huế, nổi bật nhất là những sáng tác mang âm hưởng dân gian vùng Huế được người yêu âm nhạc trong cả nước biết đến và yêu thích, như: Dòng sông ai đã đặt tên của Trần Hữu Pháp, Một mùa xuân nho nhỏ của Trần Hoàn, Nhịp cầu mong nhớ, Tìm em trong nét Huế của Khắc Yên, Tiếng dạ tiếng thương, Thành Huế chúng mình thương của Hoàng Sông Hương, Ánh mắt thành Huế của Lê Anh (về sau có thêm Ngẫu hứng Huế, thơ: Triệu Nguyên Phong), Thương mãi câu hò, Lời ru dòng sông của Lê Phùng, Ngẫu hứng Lý qua đèo, Nhớ Huế của Việt Đức, Câu hò quê hương của Dương Bích Hà, Sông Hương mùa thu, Tơ vương của Vĩnh Phúc, Một chiều Thiên An của Mai Xuân Hòa, Chiều Trường Sơn của Minh Phương, Có một dòng sông của Trần Hữu Dàng, Huế thương quê mình của Nguyễn Việt, Mùa đông xứ Huế (thơ: Dương Anh Đằng, nhạc: Trần Đức)… đã góp phần làm nên một diện mạo mới về âm nhạc của vùng đất nổi tiếng thi ca, cũng như làm giàu có thêm bài hát về Huế.
Từ một tổ chức có tên Phân hội Âm nhạc, trực thuộc Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế từ trước năm 1980 đến năm 1990; từ 1990 đến 2005, trở thành Hội Âm nhạc thuộc Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế; từ 2005 đến nay, dù Hội Liên hiệp có thay đổi thành Liên hiệp Hội, nhưng tên gọi Hội Âm nhạc vẫn giữ nguyên.
Trải qua các nhiệm kỳ sau:
-
Nhiệm kỳ 1994–1997: Phân hội trưởng – NS Trần Hữu Pháp, Phó Phân hội trưởng – NS Lê Phùng
-
Nhiệm kỳ 1997–2000: Phân hội trưởng – NS Nguyễn Việt Đức, Phó Phân hội trưởng – NS Lê Phùng
-
Nhiệm kỳ 2000–2005: (thời kỳ chuyển sang mô hình Hội Âm nhạc)
Chủ tịch Hội: NS Nguyễn Việt Đức
Phó Chủ tịch Thường trực: NS Lê Phùng
Phó Chủ tịch: NS Vĩnh Phúc
Từ khi chuyển đổi qua mô hình tổ chức Hội, Hội Âm nhạc đã không ngừng tổ chức nhiều sự kiện hoạt động âm nhạc có quy mô toàn quốc và quốc tế.
Nổi bật:
-
Năm 2002: Từ kết quả sáng tác ca khúc viết về Huế được công chúng cả nước đón nhận, Công ty Phương Nam đã cử đại diện ra Huế đề nghị Hội Âm nhạc Huế liên kết với Nhà xuất bản Phương Nam biên tập tập sách nhạc Tình khúc Huế thế kỷ 20, phát hành trong cả nước qua hệ thống Phương Nam. Số lượng phát hành: 500 cuốn, chỉ gần nửa năm sau đã tái bản.
-
Tháng 3/2004: Mở trại sáng tác khí nhạc dân tộc và lý luận phê bình âm nhạc, gồm các nhạc sĩ tên tuổi trên cả nước về dự. Nhân dịp này, Hội tổ chức Hội thảo: Sự cần thiết thành lập Học viện Âm nhạc Huế, được xem là khởi đầu cho quá trình vận động thành lập Học viện Âm nhạc Huế hiện nay.
-
Nhiệm kỳ 2005–2010: Nhân sự Ban Chấp hành không thay đổi.
-
Tháng 3/2005: Nhân kỷ niệm 50 năm kết nghĩa Hà Nội – Huế – Sài Gòn, được sự chấp thuận của lãnh đạo 3 thành phố, Hội Âm nhạc Thừa Thiên Huế tổ chức Lễ kết nghĩa Hội Âm nhạc 3 thành phố, với chuỗi hoạt động âm nhạc có ý nghĩa, tạo ấn tượng tốt đẹp trong giới âm nhạc và công chúng Huế.
-
Tháng 3/2006: Mở trại sáng tác âm nhạc quốc tế “Âm sắc Huế – Việt Nam 2006”, thu hút nhiều nhà soạn nhạc quốc tế về dự trại.
-
Cũng trong thời điểm này đã ấn hành tập san Âm nhạc Huế – Hue Music, xuất bản mỗi quý, mỗi số 200 bản, đã phát hành được 14 số. Phối hợp với Nam Châu Hội Quán tổ chức được 12 chương trình sân khấu âm nhạc hàng tháng mang tên Nhạc quán, thu hút nhiều công chúng yêu âm nhạc đến dự và cổ vũ.
Điểm nổi bật nhất của tất cả những hoạt động nêu trên là đều kêu gọi nguồn tài trợ của các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh, ngân sách chỉ hỗ trợ một phần mang tính động viên.
Các nhiệm kỳ tiếp theo:
-
Nhiệm kỳ 2010–2015:
Chủ tịch Hội: NS Lê Phùng
Phó Chủ tịch Thường trực: NS Vĩnh Phúc
Phó Chủ tịch: NS Nguyễn Việt
→ Đến tháng 8/2013, do NS Lê Phùng giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội, Ban Chấp hành Hội Âm nhạc đã bầu NS Vĩnh Phúc làm Chủ tịch, NS Nguyễn Việt đảm trách Phó Chủ tịch Thường trực. -
Nhiệm kỳ 2015–2020:
Chủ tịch: NS Vĩnh Phúc
Phó Chủ tịch Thường trực: NS Nguyễn Việt
Phó Chủ tịch: NS Quốc Anh -
Nhiệm kỳ 2020–2025:
Chủ tịch: NS Quốc Anh
Phó Chủ tịch Thường trực: NS Lê Quang Vũ
Phó Chủ tịch: NS Đoàn Phương HảiThời gian qua, từ 2010 đến nay là sự tiếp biến không ngừng lớn mạnh của tổ chức Hội. Ngoài việc liên tục đẩy mạnh các hoạt động âm nhạc như: thường xuyên tổ chức các trại sáng tác, tổ chức các chương trình biểu diễn âm nhạc định kỳ, giới thiệu các tác phẩm mới của hội viên tại Studio Đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh, tổ chức cuộc thi sáng tác ca khúc về Huế trên phạm vi cả nước…
Hội cũng làm cầu nối cho tỉnh để tổ chức và vận động nhiều nhạc sĩ trong và ngoài tỉnh sáng tác cuộc thi ca khúc Ngày Chủ nhật xanh. Qua đó, đã phát hành Album về Ngày Chủ nhật xanh và ấn hành tập ca khúc Huế mãi trong tôi.
Hội thường xuyên nâng cao chất lượng đội ngũ hội viên về chuyên môn, thông qua các chương trình đào tạo trung và dài hạn để phù hợp với xu thế chung của tiến trình phát triển đất nước. Đến nay, toàn Hội đã có:
-
01 Phó Giáo sư – Tiến sĩ
-
03 hội viên có học vị Tiến sĩ
-
Nhiều hội viên là Thạc sĩ chuyên ngành âm nhạc (chưa kể các hội viên có học hàm, học vị của các chuyên ngành khác)
-
05 hội viên là Nghệ sĩ Ưu tú
-
01 hội viên là Nhà giáo Ưu tú
Từ những hội viên ban đầu của ngày Huế mới giải phóng (chưa quá hai bàn tay), sau 50 năm, Hội Âm nhạc đã có 132 hội viên, trong đó có 50 hội viên Hội Nhạc sĩ Việt Nam.
Hội đã hình thành một đội ngũ mới, trẻ trung, có chất lượng chuyên môn, giàu năng lượng sáng tác, đào tạo, biểu diễn và hoạt động âm nhạc, đã giành nhiều giải thưởng lớn cấp quốc gia và trong tỉnh, đồng thời có học vị cao, tiêu biểu như: Hà Mai Hương, Phan Thuận Thảo, Dương Lan Hương, Lê Quang Vũ, Nguyễn Thanh, Lê Chí Quốc Anh, Nguyễn Đen, Đoàn Phương Hải…
Qua thực tiễn hoạt động của một tổ chức hội mang tính chính trị, xã hội, nghề nghiệp như Hội Âm nhạc, để phát huy tốt hiệu quả hoạt động, điều nhất thiết phải có, đó là: TÍNH CHỦ ĐỘNG! Vì nếu không có sự chủ động, cũng chỉ là “múa tay trong bị”.
Ngỏ hầu khắc phục phần nào tình trạng thiếu chủ động nêu trên, thiển nghĩ: phía Liên hiệp Hội – vốn đã luôn quan tâm đến hoạt động của các hội chuyên ngành – cần nghiên cứu bố trí cho mỗi hội như: Văn, Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Âm nhạc mỗi năm được tổ chức ít nhất:
-
01 trại sáng tác chuyên ngành (từ 12–15 hội viên)
-
2–3 cuộc triển lãm hoặc chương trình giới thiệu các tác phẩm mới của hội viên
-
Chủ động về thời gian, địa điểm, công tác hậu cần…
Tất cả dựa trên cơ sở kinh phí dự trù của từng hội chuyên ngành. Nếu được trao quyền chủ động, thì vai trò tổ chức của các hội chuyên ngành mới phát huy hết nội lực của bộ máy Ban Chấp hành, công tác điều hành sẽ thể hiện rõ rệt hơn, và như vậy, tính kết nối với hội viên cũng dễ thắt chặt hơn.
Năm 2025 là một cơ hội và cũng là một vận hội mới của tỉnh nhà, khi Huế chính thức trở thành thành phố trực thuộc Trung ương. Với đà thuận lợi này, mỗi văn nghệ sĩ có quyền bay bổng tâm hồn hơn để tạo nên những sản phẩm tinh thần tốt đẹp dành cho quê hương, đất nước; và cũng có quyền hy vọng rằng, mọi điều kiện cho việc tổ chức các hoạt động nghệ thuật sẽ được tạo thuận lợi hơn, để mỗi văn nghệ sĩ Huế có thể cống hiến nhiều hơn nữa cho quê hương yêu dấu.
-